Đình làng Việt Nam, nơi thờ Thành hoàng địa phương, đồng thời là nơi hội họp, đình đám hội hè, nơi các kỳ hào tụ tập chè chén, nơi dân chúng thi thoảng đến dự một cuộc tế lễ. Người ta có thể trò chuyện thỏa thích, thậm chí cãi vã nhau, bông đùa, cợt nhả cũng chẳng ai cấm. Nhà nghiên cứu - NNC, họa sĩ thời Đông Dương, Nguyễn Đỗ Cung viết “ chưa thật dân chủ, xã hội Việt Nam xưa kia cũng không phải hoàn toàn phong kiến” (1) trong nghiên cứu điêu khắc Đình làng.

 
     Thập niên 1970, Nhà nghiên cứu, phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân viết về điêu khắc Đình làng đã từng bị bỏ quên như sau: “kể từ những quyển sách cũ nhất cuối thế kỷ trước, cho tới trang viết về mỹ thuật Việt Nam cách đây 10 năm thôi, của cả tác giả ngoài lẫn trong nước, tuyệt nhiên không thấy ai nói tới nó, hoặc không ai dành cho nó những câu - chứ đừng nói đến những trang - xứng đáng” (2). Và ông lý giải sự quên lãng ấy như sau: “ta hiểu đây là chuyện thường xảy ra đối với những cá tính nghệ thuật mạnh mẽ, những cá tính thà bị tạm lãng quên, chứ không chịu chung chạ với mọi thời” (2).

     Những yếu tố Xã hội và Dân chủ của loại hình điêu khắc Đình làng lại trở thành đối tượng bị nhóm người ở Viện nghiên cứu Viễn Đông Pháp, nơi có tài liệu liên quan đến mỹ thuật Việt Nam cổ truyền, họ có đầu óc bảo thủ trong nhận thức nghệ thuật, họ muốn truyền bá thẩm mỹ Hy-La làm chuẩn mực duy nhất, và đương nhiên họ rất giống phong kiến Việt Nam ở chỗ, “không chịu nổi cái chất bình dân bộc bạch, nô đùa, nhạo báng, khinh khi vừa hóm lại vừa thô, đối với mọi thần tượng đẳng cấp” (2).

     Yếu tố Xã hội và Dân chủ của điêu khắc Đình làng là ở điểm, nó “trả lại” cho ta cái không khí đặc biệt của xã hội Việt Nam hồi các thế kỷ 17,18. Tinh thần nhân đạo ở hướng trữ tình của văn nghệ dân gian, chống những ràng buộc làm khô héo cuộc sống sinh độngcủa con người. Điêu khắc Đình làng trên nền tảng gốc rễ chặt chẽ của dân tộc mình, đã vọng ra tiếng nói đối thoại, mang tính hòa đồng với một trật tự xã hội phong kiến, gồm những tác phẩm kinh điển và những mẫu rập khuôn của nền nghệ thuật cung đình: Rồng, phượng, lân, rùa cứng nhắc trong những tư thế oai nghiêm, giống hệt nghệ thuật Hy-Lạ hay Phục hưng. Cuối cùng để làm nổi bật cái phản ứng, mang tính đấu tranh giai cấp, giữa thống trị và bị trị, qua biểu hiện nghệ thuật điêu khắc Đình làng, được nở rộ, tồn tại công khai nhiều thế kỷ, một bằng chứng của sự Dân chủ và Xã hội có văn hóa đối thoại.

 

     Điêu khắc Đình làng kế thừa liên tục nghệ thuật Lý, Trần, Mạc, tới cực thịnh thời Hậu Lê và đương nhiên có cá tính tạo hình. Ở hình thái Cổ điển, “hiệu quả mang tính mặc định, là tóat ra sự trang nghiêm, lặng lẽ, không xúc động cụ thể, có thái độ trung dung của mọi thời. Hôm nay ta có thể đấy nhan nhản khắp thế giới hay phảng phất trên Phật Di Đà của chùa Phật Tích, đã biến đâu mất cái điêu khắc Đình làng” (2). Điêu khắc đình Thổ Tang, Chu Quyến có người đi cày, đình Tây Đằng có bổ củi, chèo thuyền ngắm cảnh, gánh con, cảnh tình tự, đình Thạch Lỗi có bế con,đình An Hòa có chọi gà, đình Liên Hiệp có chọi trâu, đình Hoàng Xá có đánh vật, hát à đào, chuốc rượu, đình Hoàng Sơn có bơi thuyền, đình Ngọc Canh có uống rượu, đánh cờ, ngày hội. Người thợ chạm Đình làng, mà theo nhà sáng lập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - Nguyễn Đỗ Cung và Tổng thư ký Hội mỹ thuật Việt Nam – họa sĩ Trần Văn Cẩn đã từng viết thì họ là những nghệ sĩ lớn của nghệ thuật điêu khắc Đình làng. 

     Một tấm điêu khắc mở ra nhiều chiều, khác với lối điểm mắt cố định Cổ điển. Hình không còn lặng lẽ trong đường viền tĩnh tại, nét không còn trơn chảy liên tục. Điêu khắc Đình làng lấy các hành động theo nhịp làm cấu trúc của mỹ thuật điêu khắc. “Ở đó, các khối, doãi ra, rồi  rút lại, cảm giác trăn trở và không thấy lặp lại hình mẫu có sẵn nào. Khối không còn lặng như tờ trong đường viền rạch ròi, mà trở động, vừa gấp vừa lỏng, như trong đời sống tự nhiên.” (2) Nét thì dồn gấp theo nhịp rồi đột ngột ngưng gãy không thấy giới hạn đường biên hình nó đối ngược với lối trơn tru, lề thói học viện.

      Không gặp được ở điêu khắc Đình làng những chi tiết đẹp hoàn chỉnh, đứng kiểu “em xinh em đứng một mình”. Ở đây mang hơi thở cộng đồng làng xã, nên là cấu trúc hình, là kết cấu chung của những chi tiết hợp lại, hàm chứa chung một giá trị. Ví như không thể tách bàn tay xòe đang nâng ly rượu ở đình Ngọc Canh, ra khỏi cái nhịp điệu say sưa của hai người đàn ông đang vui.  Ví như không thể tách cánh tay dài nghêu, nhỏ xíu của Cô tiên ở đình Thổ Tang, khỏi tư thế cơ thể biểu hiện nhục cảm (như tách ở Quan Âm Bút Tháp), bởi người xem sẽ bị ngắt mạch cảm xúc.

 


     Căn cứ vào cấu trúc tạo hình điêu khắc Đình làng, thì người thợ điêu khắc thấu hiểu luật lệ, quy tắc tạo hình  Cổ điển, như lối diễn đường hình chạm khắc Rồng ở đình Vị Hạ, Tiên cưỡi rồng, bông sen ở đền Vua Lê… Những nghệ sĩ lớn điêu khắc, đã cố tình vượt qua nó bằng các kỹ thuật như đường viền cởi mở, bố cục dàn đều ở nhiều điểm mắt, giúp bỏ sự đăng đối dọc ngang trên dưới, tạo hình chuyển động bằng cách tạo các lớp khối xếp dồn, bề mặt các khối thô, tạo cảm giác nhịp xoáy nhanh, chậm bằng cách tận dụng kết hợp của ánh sáng, bóng tối, với sự tương phản của các bề mặt u, hốc điêu khắc. Thang bậc đậm, nhạt sáng tối của ánh sáng rất giàu có trên các điêu khắc Đình làng. Phương tây ca ngợi những kỹ thuật bác học đối chọi ánh sáng và bóng tối như Rembrant (thế kỷ 18), kỹ thuật tối trong tối kĩ như Leonardo de Vinci (thế kỷ 16), thì chúng ta thỏa mãn con mắt ở đình Tây Đằng, Thổ Tang, Đông Viên,…

     Như các nhà nghiên cứu ở Viện nghiên cứu Mỹ thuật đã viết ra từ thập niên 1970, điểm nhấn là 1972, khi đó có cuộc ra mắt cuốn sách Điêu khắc Dân gian Việt Nam và Triển lãm Điêu khắc Đình làng của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, thì bắt đầu khởi một giai đoạn kéo dài tới hôm nay, với những nghiên cứu và phát triển diễn giải về vốn Văn hóa cổ điêu khắc Đình làng bằng nhiều phương tiện khác nhau, trái ngược với cả gần trăm năm trước, điêu khắc Đình làng bị lãng quên.

(Còn Tiếp) 

Phần đăng trên đây là một phần của bài nghiên cứu có tiêu đề ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG - DIỄN ĐẠT QUA TRANH MÚA CỔ của người nghiên cứu Nguyễn Đức Tiến. Bài nghiên cứu này sau đó được lọc chọn kỹ càng ngắn gọn, đăng trên báo Nhân Dân số thứ 2, trang 5, ngày 11/12/2023 với tiêu đề Từ Điêu Khắc Đình Làng Đến Kiệt Tác Sơn Mài Múa Cổ.

 
Tài liệu tham khảo:
(1) Điêu Khắc Đình làng Dân gian Việt Nam, 1972, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Viện Mỹ thuật và Mỹ Nghệ;
(2) Tiếp Xúc Với Nghệ Thuật, 2009, Thái Bá Vân, NXB Mỹ thuật;
(3) Tranh Nguyễn Tư Nghiêm Trong bộ sưu tập của Nguyễn Thu Giang, 1994, NXB Mỹ thuật;
(4) Nguyễn Tư Nghiêm, Quang Việt, 2019, NXB Mỹ thuật;
(5) Đạo Đức Kinh, Lão Tử, 2023, NXB Thế Giới;
(6) Cảm luận nghệ thuật, Trần Duy, 2002, NXB Mỹ thuật;
(7) Mỹ Thuật Việt Soi Từ Phía Khác, 2022, Trần Hậu Yên Thế, NXB Mỹ thuật;
(8) Về Cái Tinh Thần Trong Nghệ Thuật, Kandinsky, 2014, NXB Mỹ thuật;